Blog Archive

KHOA HỌC CÂY NGÔ

FOOD CROP LECTURE

Sunday, December 6, 2020

Chương 1. VỊ TRÍ KINH TẾ CÂY NGÔ

Chương 1
VỊ TRÍ KINH T CÂY NGÔ

1.1          Tầm quan trọng của cây ngô trên thế giới và Việt Nam

1.2          Sản xuất, tiêu thụ cây ngô trên thế giới và Việt Nam

1.3          Thành phần dinh dưỡng và giá trị kinh tế của ngô

1.4          Nguồn gốc, phân loại, vùng phân bố, lịch sử phát triển .

 

1.1. Tầm quan trọng của ngô trên thế giới và Việt Nam

(Lê Quý Kha 2018)

Ngô có giá trị dinh dưỡng cao, trong thân, lá, nhất là hạt ngô có chứa tương đối đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho người và gia súc. Vì vậy ngô có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và trong chăn nuôi được thể hiện như sau:

1.1.1.Ngô làm lương thực cho người

Năm 2018 ngô được gieo trồng với diện tích trên 180 triệu ha trên toàn cầu, đóng góp khoảng 50% (1.170 triệu tấn) trong tổng sản lượng lương thực trên toàn cầu. Khoảng 60-70% diện tích được gieo trồng ở các nước đang phát triển. Ngô cung cấp trên 20% nhu cầu calo cho bữa ăn con người trên 21 quốc gia (Prasanna, 2018) và trên 30% ở 12 nước (310 triệu người).

Hiện nay trên thế giới, 60-70% tổng sản lượng ngô được dùng làm thức ăn chăn nuôi và 30-40% dùng làm lương thực cho người (Gwirtz và Garcia- Casal, 2013).

Theo số liệu công bố của Bộ Nông nghiệp Mỹ, trong 100 g ngô hạt trắng nguyên hạt rất giàu các chất dinh dưỡng (Bảng 1.1) như tinh bột (74,3 gam), chất đạm (9,4 gam), chất béo (4,7 gam), vitamin B1 (0,39 mg), vitamin B2 (0,20 mg), vitamin B3 (3,63 mg); vitamin B5 (0,42 mg), vitamin B6 (0,62 mg), đều cao hơn gạo trắng ở các chỉ tiêu tương ứng: tinh bột (65,0 gam), chất đạm (8,0 gam), chất béo (2,5 gam), vitamin A (0 mg), vitamin B1 (0,20 mg), vitamin B2 (0 mg), vitamin C (0 mg). Ngoài ra trong bột ngô còn chứa đầy đủ các chất khoáng như Canxi (Ca), Sắt (Fe), Manhê (Mg), Phôtpho (P), Kali (K), Natri (Na), Kẽm (Zn), Đồng (Cu), Mangan (Mn) và Selen (Se).

Bảng 1.1 Hàm lượng khoáng và vitamin trong ngô nguyên hạt, tinh bột, ngô chế biến và masa ngâm nước vôi

1.1.2.Ngô làm thực phẩm

Ngoài làm lương thực, ngô còn là cây thực phẩm có giá trị, người ta dùng ngô bao tử làm rau cao cấp và dùng hạt ngô đường chiên với thịt, bơ làm món khai vị trong các bữa tiệc, đồ ăn nhẹ, nước trộn salad, nước ngọt, kẹo cao su, bơ đậu phộng, các sản phẩm bột khác và bỏng ngô. Nghề này phát triển rất mạnh, mang lại hiệu quả cao tại Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ.

Các loại ngô nếp, ngô đường (ngô ngọt) được dùng làm thực phẩm ăn tươi (luộc, nướng) hoặc đóng hộp làm thực phẩm xuất khẩu. Người ta thường dùng ngô rau để xào với thịt, nấu súp; ngô ngọt để xào, nấu súp, chiên với bơ, làm kem và sữa ngô. Ở các nước Mỹ La tinh và châu Phi người dân còn sử dụng dạng huyền phù của bột ngô tươi làm thức uống hàng ngày trong gia đình. Ngô rau được tin dùng vì nó sạch và có hàm lượng dinh dưỡng cao (Bảng 1.2).Nguồn: Ngô Hữu Tình, 2009.

Bảng 1. 2 Nguồn: Ngô Hữu Tình, 2009.

Kết quả ở Bảng 1.2 cho thấy trong ngô rau hàm lượng chất béo 0,2 gam, chỉ thấp hơn suplơ, nhưng lại tương đương với ngô cải, cà chua, cà và dưa chuột; hàm lượng protein 1,9 gam, cao hơn với ngô cải, cà chua, cà và dưa chuột; hàm lượng hydrat cacbon 8,20 gam, cao hơn súp lơ, ngô cải, cà chua, càvà dưa chuột; hàm lượng phopho cao hơn súp lơ, ngô cải, cà chua, cà và dưa chuột; hàm lượng canxi cao hơn cà chua và dưa chuột. Giá trị dinh dưỡng của ngô ngọt được trình bày ở bảng 1.3

Bảng 1.3 Giá trị dinh dưỡng của ngô ngọt phân tích từ 100 g hạt . Nguồn: Cơ sở dữ liệu Dinh dưỡng của USDA (Mỹ, 2018).

1.1.3.Ngô làm thức ăn chăn nuôi

Hiện nay, ngô là cây thức ăn rất quan trọng trong chăn nuôi. Hầu như 70% chất tinh trong thức ăn tổng hợp là từ ngô, điều đó phổ biến trên toàn thế giới. Ngoài việc cung cấp chất tinh, cây ngô còn là thức ăn xanh và ủ chua lý tưởng cho đại gia súc, đặc biệt là bò sữa. Thành phần dinh dưỡng của thân, lá, ngô ngô xanh và ủ chua được trình bày ở Bảng 1.4

Bảng 1.4 Thành phần hóa học của cây ngô xanh (không ngô), thân lá và cây ngô ủ chua. Nguồn: Ngô Hữu Tình, 2009.

Lượng ngô tiêu dùng sẽ tăng 16% vào năm 2027 (FAO, 2018), trong đó ngô dùng làm thức ăn chăn nuôi sẽ tăng từ 56% lên 58% vào năm 2027, chủ yếu tăng do nhu cầu thức ăn chăn nuôi ở các nước đang phát triển. Riêng châu Á, tỷ lệ ngô dùng làm thức ăn chăn nuôi sẽ chiếm khoảng 70% (Prasanna, 2018).

Kết quả ở Bảng 1.4 cho thấy trong cây ngô xanh (không ngô) hàm lượng protein thô trong lá cao nhất, tiếp đến là lá bi ngô xanh và cuối cùng là thân; hàm lượng lipit thô trong lá cũng cao hơn thân và lá bi ngô xanh; các chiết xuất không đạm ở lá bi ngô xanh cao hơn lá và cuối cùng là thân; xenlulo đạm ở lá bi ngô xanh cao hơn than và cuối cùng là lá.

Trên thế giới dùng ngô làm thức ăn chăn nuôi, trong đó các nước phát triển có tỷ lệ dùng ngô làm thức ăn chăn nuôi cao, một số nước có tỷ lệ này rất cao như Mỹ, Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan.

Ở Việt Nam, ngô là nguyên liệu chính trong chế biến thức ăn chăn nuôi (khoảng 90%) song tỷ lệ ngô trong tổng số chất tinh vào khoảng 50% vì ở nước ta còn dùng thêm gạo gẫy, cám, bột sắn... Nhu cầu thức ăn chăn nuôi ở nước ta hiện nay rất lớn, mỗi năm Việt Nam nhập khẩu trên 7-8 triệu tấn ngô hạt và các sản phẩm từ ngô để làm nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi (tương đương từ 1,7 tỷ đến 1,8 tỷ USD). Nhu cầu ngô sẽ ngày một gia tăng mạnh vì ngành chăn nuôi nói chung, chăn nuôi bò sữa nói riêng đang phát triển rất mạnh, kết hợp với ngành thủy sản cũng tiêu thụ một lượng ngô rất lớn làm thức ăn cho nuôi tôm, cá.

1.1.4.Ngô là nguồn hàng hóa xuất khẩu

Hàng năm lượng ngô xuất nhập khẩu trên thế giới khoảng 148-149 triệu tấn, bằng 13,75 % tổng sản lượng ngô toàn cầu (1.076,18 triệu tấn). Các nước xuất khẩu ngô chính là Mỹ, Argentina, Braxin, Nam Phi, 12 nước thuộc Liên bang Xô Viết cũ. Các nước nhập khẩu ngô chính là Ai Cập, Nhật Bản, EU, Hàn Quốc, Mexico, một số nước Đông Nam Á (USDA, 2018).

Bảng 1.5 Tổng sản lượng ngô và xuất nhập khẩu ngô giữa các khu vực trên thế giới

(Đơn vị tính: triệu tấn. Nguồn: USDA (2018); Các nước Đông Nam Á gồm: Indonesia, Malaysia, Philippines, Thailand và Vietnam.

Ở Việt Nam tình hình nhập khẩu ngô những năm trước đây chủ yếu là con đường tiểu ngạch từ Trung Quốc với lượng trên 300.000 tấn/năm. Những năm gần đây lượng ngô nhập khẩu từ các nước Mỹ, Ân Độ, Argentina đã tăng lên nhanh, chủ yếu ngô nhập khẩu dùng để chế biến thức ăn chăn nuôi. Lượng ngô nhập khẩu ở Việt Nam ở Bảng 1.7 như sau: năm 2010 Việt Nam nhập khẩu 1,6 triệu tấn ngô hạt (giá trị 0,54 triệu USD), đến năm 2016 là 8,3 triệu tấn ngô hạt và các sản phẩm từ ngô (giá trị 1,65 triệu USD), năm 2017 là 9,5 triệu tấn ngô hạt và các sản phẩm từ ngô (giá trị 1,888 triệu USD).

Bảng 1. 7 Lượng ngô nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2010-2017. Nguồn: USDA, 2017.

1.1.5. Ngô phục vụ các mặt hàng tiêu dùng

Tinh bột ngô tham gia thành phần của hàng chục ngàn sản phẩm trong cuộc sống hiện đại ngày nay (Corn Refiners Association, 2006). Ví dụ, tinh bột ngô tham gia vào các vật liệu nhựa đồ dùng, pin sinh học, mỹ phẩm (chất mài mòn, chất hấp thụ, chất kết dính, điều hòa, chất bảo vệ, chất tẩy rửa, trang điểm dạng lỏng, chất thơm của hóa mỹ phẩm), đường trong nước giải khát, khăn vệ sinh trẻ em, que diêm, vỏ áo các viên thuốc, thảm lau chân, bút chì màu, sữa chua, keo dính, đường phèn, kem đánh răng, đồ nhựa, vỏ thuốc Penicillin, vỏ thuốc Aspirin, tinh bột trong nhựa phân hủy sinh học, siro ngô, rượu whisky, ethanol, sữa ngô, dầu rán, khí đốt, vách thạch cao, giấy sáp, kẹo cao su sinh học, xà phòng rửa tay, chất tẩy rửa (2-Hexoxyethanol, axit axetic, ethanolamine, hương thơm và màu nhân tạo), vécni, gạch lát chống thấm, bugi, lốp xe, kẹo cao su sinh học (HFCS, hương liệu, chất tạo màu).

1.1.6 Tiêu thụ ngô làm thức ăn chăn nuôi trên thế giới

Sản xuất và tiêu thụ ngô sinh khối dùng trong chăn nuôi trên thế giới được trình bày ở  Bảng 1.13.  Năm 2012, trên thế giới, diện tích trồng ngô lấy cây xanh phục vụ chăn nuôi đạt 1,152 triệu ha, sản lượng 108,748 triệu tấn; đến năm 2016 diện tích tăng lên là 1,416 triệu ha, sản lượng 170,911 triệu tấn, tăng 62,163 triệu tấn so với năm 2012.

Bảng  13 Diện tích, năng suất và sản lượng ngô cây xanh (thân, lá, ngô non) phục vụ chăn nuôi trên thế giới giai đoạn 2012-2016 . Nguồn: FAOSTAT, 2017.

Theo báo cáo của QY Research về thị trường thương mại hạt giống ngô sinh khối toàn cầu 2018 (Pioneer et al, 2018), căn cứ các tiêu chí về giá trị & khối lượng hạt giống thương mại, dựa trên số liệu loại sử dụng và khu vực của các công ty tham gia chính. Đó là các công ty quan trọng hàng đầu ở Bắc Mỹ, Châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản, Đông Nam Á, Ân Độ và các khu vực khác (Trung Đông và Châu Phi, Trung & Nam Mỹ). Cụ thể là các công ty như DuPont Pioneer, Monsanto, Syngenta, KWS (KWS UK. Ltd, 2017) và Limagrain. Hiện nay, DuPont Pioneer là công ty hàng đầu thế giới, chiếm giữ 26,36% thị phần hạt giống ngô sinh khối toàn cầu trong năm 2016. Tiêu thụ toàn cầu đối với hạt giống ngô sinh khối tăng từ 875,45 ngàn tấn vào năm 2012 lên 1.070,06 ngàn tấn vào năm 2016, với tốc độ tăng hàng năm hơn 5,15%. Thị trường hạt giống ngô sinh khối tăng lên chủ yếu do nhu cầu tăng lên của việc trồng ngô sinh khối ở trang trại, chiếm gần 62,84% tổng lượng tiêu thụ hạt giống ngô sinh khối trên toàn cầu (USDA, 2018).

Mỹ là nước có diện tích trồng ngô lớn nhất thế giới với 34,8 triệu ha ngô lấy hạt và 2,4 triệu ha trồng ngô sinh khối, sản phẩm từ ngô sinh khối chủ yếu phục vụ cho nhu cầu làm nhiên liệu sinh học và làm thức ăn cho ngành chăn nuôi gia súc lớn (USDA-NASS, 2011). Năm 2016, Mỹ là thị trường hàng đầu tiêu thụ hạt giống ngô để sản xuất ngô sinh khối và Mỹ cũng là thị trường tiêu thụ lớn nhất trong khu vực, chiếm khoảng 54,65% lượng tiêu thụ hạt giống ngô để sản xuất ngô sinh khối toàn cầu.

Tổng diện tích canh tác các loài cây trồng lấy sinh khối ở Ân Độ là 8,4 triệu ha (5,23% diện tích các loài cây trồng), ổn định trong 2 thập kỷ qua. Hiện nay, toàn Ân Độ mới chỉ đáp ứng được 54% tổng chất xanh từ sản phẩm phụ sau thu hoạch cây trồng, trong đó chỉ 18% chất xanh được đáp ứng bởi các loại cỏ, và 28% được đáp ứng bởi các cây trồng khác nhau. Như vậy, Ân Độ đang thiếu 33,10% lượng thức ăn xanh, thiếu 11,41% các phế phụ phẩm chất khô và thiếu 64% thức ăn chăn nuôi khác. Sự mất cân đối cung cầu trên ngày càng xa nhau do tốc độ chăn nuôi gia súc tăng lên không ngừng, với tốc độ tăng số lượng 1,23% trong những năm tới (Bảng …) Cơ cấu đàn gia súc cũng đang thay đổi theo hướng tăng lượng gia súc nhai lại do tốc độ tăng trưởng ngành thịt loại này. Hiện nay, toàn Ân Độ mới có diện tích ngô sinh khối là 0,06 triệu ha, sản lượng 2,27 triệu tấn và năng suất đạt 40-41 tấn/ha (Kalra, 2018).

Bảng 1. 14 Nhu cầu và nguồn cung của thức ăn xanh, thức ăn khô cho chăn nuôi tại Ấn Độ        (Đơn vị tính: triệu tấn)  Nguồn: PAWAR, 2018. (Bảng 1.11.)

1.1.7 Tiêu thụ ngô làm thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam

Ngô là nguyên liệu chủ yếu trong chế biến thức ăn chăn nuôi. Để sản xuất một kilogam thức ăn tinh cho lợn, trâu, bò, gà, tỷ lệ ngô hạt hoặc sản phẩm từ ngô được nghiền và phối trộn vào thức ăn chăn nuôi chiếm khoảng 80% tổng khối lượng thành phẩm. Sở dĩ ngô đang được dùng phổ biến trong chế biến thức ăn chăn nuôi là do ngô dễ trồng với sản lượng lớn, dễ bảo quản và trong ngô hạt hoặc thân, lá ngô đều chứa nhiều dinh dưỡng quý, nhất là một số axit amin không thay thế chỉ trong ngô mới có. Ở nước ta, ngô ngày càng được sử dụng nhiều trong chế biến thức ăn chăn nuôi, trong đó năm sau cao hơn năm trước (Bảng 1.17).

Số liệu ở Bảng 1.17 cho thấy, từ năm 2010-2017 lượng ngô hạt sản xuất trong nước đạt 4625,7 nghìn tấn (2010) tăng lên 5131,9 nghìn tấn (2017) và theo Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), lượng ngô nhập khẩu của Việt Nam năm 2010 là 1.600 nghìn tấn, tăng lên 9.500 nghìn tấn (2017).

Bảng 1. 24 Tổng lượng ngô tiêu thụ ở Việt Nam từ năm 2010-2017. Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2017; USDA, 2017. (Bảng 1.17.)

Tổng lượng ngô ở Việt Nam đã sử dụng là 6.225.700 tấn ngô (2010), đến năm 2017 tăng lên 14.631.900 tấn (Số liệu nhập khẩu 2017 có cả tạm nhập tái xuất đi một số nước khác). Lượng ngô này chủ yếu được dùng chế biến thức ăn chăn nuôi.

Tiêu thụ cây ngô xanh (ngô tươi) làm thức ăn chăn nuôi gia súc những năm gần đây ở nước ta rất sôi động. Việt Nam có nghề chăn nuôi gia súc khá phát triển, số lượng trang trại bò thịt, bò sữa tăng cao (trên 2,5 triệu con trâu, gần 5,5 triệu con bò, trong đó bò sữa trên 285 nghìn con), nên nhu cầu lượng thức ăn xanh từ việc trồng cỏ và trồng ngô sinh khối làm thức ăn cho gia súc là rất lớn, tập trung chủ yếu ở các vùng: Mộc Châu (Sơn La), Ba Vì (Hà Nội), Yên Bái, Hà Nam, Nghĩa Đàn, Đô Lương, Anh Sơn, Diễn Châu, Con Cuông (Nghệ An), Cẩm Thủy, Thọ Xuân, Như Thanh (Thanh Hóa), Đồng Nai, Củ Chi (TP Hồ Chí Minh), Bình Dương, Tây Ninh, Long An.

Ở Việt Nam xu hướng nhóm các hộ nông dân sản xuất gia công ngô sinh khối theo hợp đồng cho các nhà máy như Nhà máy chế biến ngô sinh khối Việt Nông Lâm (Trảng Bom - Đồng Nai) hoặc Công ty TH Milk (Nghĩa Đàn - Nghệ An), Công ty Vina Milk (Đơn Dương - Lâm Đồng).

Trong số các giống ngô được người sản xuất chấp nhận dùng để sản xuất ngô sinh khối, giống ngô lai đơn LCH9 của Viện Nghiên cứu Ngô công nhận chính thức từ năm 2008 (Lê Quý Kha và cs., 2008), được mở rộng diện tích tổng số hơn 10 ngàn hecta tại một số tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam bộ từ những năm 2010 đến nay (Bảng 1.18).

Theo kết quả phân tích chất lượng thức ăn thô xanh, hàm lượng protein thô của LCH 9 đạt 11,3%/VCK, trong khi ở cùng thời điểm thu hoạch và điều kiện canh tác, các giống ngô lai thông thường chỉ đạt 7,95%/vật chất khô. Ngoài ra, hàm lượng các axit amin thiết yếu đối với động vật như lysine và tryptophan lần lượt đạt 4% và 0,80%/tổng số protein, thuộc nhóm đầu trong các giống ngô lai F1 hiện nay.

Bảng 1. 25 Diện tích ngô sinh khối LCH9 tại các tỉnh từ 2010 đến nay (Bảng 1.18.)

Nguồn: Công ty Thương mại giống cây trồng Delta; Cty CP Sữa Đà Lạt, Lâm Đồng; Tập đoàn Hòa Phát.

Sự cải thiện về chất lượng này đặc biệt có ý nghĩa giúp gia súc tăng trọng nhanh và nâng cao năng suất sản xuất sữa mà không cần bổ sung protein trong quá trình chăn nuôi. Về năng suất sinh khối, kết quả thí nghiệm của trang trại TH Milk tại Lâm Đồng cho thấy, giống LCH 9 đứng đầu trong bộ giống ngô sinh khối khảo sát, về lý thuyết đạt đến 12,5 kg sinh khối cây ngô chín sáp/m2 (tương đương 125 tấn/ha), tăng 12,5% so với đối chứng đang được gieo trồng phổ biến tại đây ở thời điểm thí nghiệm. Giống ngô LCH9 cũng đang được gieo trồng phổ biến làm thức ăn ủ chua cho bò tại các vùng nuôi bò tập trung ở Lâm Đồng, Sơn La, Hà Nam, Vĩnh Phúc...

Ngoài các chỉ số vượt trội về mặt dinh dưỡng, LCH9 còn là giống ngô thuộc nhóm có khả năng chịu hạn rất tốt (Lê Quý Kha và cs., 2008). Hiện giống đã được nhiều công ty chăn nuôi bò sữa, bò thịt lựa chọn sử dụng để sản xuất thức ăn cho bò như: Công ty Cổ phần Sữa Đà Lạt, Lâm Đồng; Tập đoàn Hòa Phát đang trồng tại Trực Ninh (Nam Định), Thái Bình, Quảng Bình và Đồng Nai.

1.2. Sản xuất, tiêu thụ ngô trên thế giới và Việt Nam

(Lê Quý Kha 2018)

1.2.1.      Tình hình sản xuất ngô gạo trên thế giới

Cây ngô có nguồn gốc từ Mexico, trải qua hàng nghìn năm tiến hoá và phát triển đã trở thành loại cây trồng có vị trí vô cùng quan trọng trong nền nông nghiệp toàn cầu. Các nước ở Trung Mỹ, Nam Á và châu Phi sử dụng ngô làm lương thực chính; các nước Đông Nam Phi sử dụng 85% sản lượng ngô làm lương thực cho người, Tây Trung Phi 80%, Bắc Phi 42%, Tây Á 27%, Nam Á 75%, Đông Nam Á và Thái Bình Dương 39%, Đông Á 30%, Trung Mỹ và vùng Caribe 61%, Nam Mỹ 12%, Đông Âu và Liên Xô cũ 4%. (Ngô Hữu Tình, 2003).

Hiện nay, phần lớn lượng ngô được sử dụng làm thức ăn gia súc. Hầu như 70% chất tinh trong thức ăn tổng hợp là từ ngô và điều này là phổ biến trên toàn thế giới. Theo Trung tâm Cải lương giống Ngô và Lúa mì quốc tế (CIMMYT): Lượng ngô toàn thế giới sử dụng làm thức ăn cho gia súc chiếm khoảng 66% tổng sản lượng ngô, đặc biệt ở các nước công nghiệp phát triển thường sử dụng 70% - 90% sản lượng ngô cho chăn nuôi như: Pháp: 90%; Mỹ: 89%... (CIMMYT, 2001). Ngoài việc cung cấp thức ăn tinh, cây ngô còn là thức ăn xanh và ủ chua lí tưởng cho đại gia súc, đặc biệt là bò sữa. Bên cạnh đó, ngô còn là nguồn cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy công nghiệp, người ta đã sản xuất ra khoảng 670 mặt khác nhau từ ngô như: Cồn, tinh bột, dầu, bánh kẹo… (Ngô Hữu Tình, 2003). Hàng năm cây ngô không ngừng tăng về diện tích, năng suất, sản lượng. Một số nước sản xuất ngô hàng đầu: Mỹ, Trung Quốc, Brazil, Mexico, Ấn Độ, Nam Phi....

Bảng 1.1 Diện tích, năng suất, sản lượng sắn Thế giới và Việt Nam (2000 – 2018)



Qua bảng 1… cho thấy năng suất ngô trên thế giới tăng nhanh từ 2,35 tấn/ha năm 1970 lên 5,92 tấn/ha năm 2018. Đến năm 2018, tổng diện tích ngô trên thế giới là 193,73 triệu ha, năng suất đạt 5,75 tấn/ha và sản lượng đạt 1.147,62 triệu tấn.

Châu Mỹ là nơi sản xuất ngô lớn nhất, với diện tích năm 2018 là 70,64 triệu ha, năng suất 8,18 tấn/ha, sản lượng 577,95 triệu tấn đứng đầu so với các châu lục còn lại. Đứng thứ hai là châu Á với diện tích 67,30 triệu ha và sản lượng 361,56 triệu tấn, nhưng năng suất ngô ở châu Á còn thấp 5,37 tấn/ha sau châu Mỹ 8,07 tấn/ha, châu Âu 7,54 tấn/ha.

Bảng 1.10 Một số nước sản xuất ngô lớn trên thế giới năm 2017


Qua bảng 1….. cho thấy, nước diện tích trồng ngô nhiều nhất là Trung Quốc với 42,43 triệu ha với năng suất đạt 6,11 tấn/ha và sản lượng đạt 313,92 triệu tấn. Tuy nhiên về sản lượng, Trung Quốc chỉ đứng thứ 2 trên thới giới sau Mỹ. Mặc dù diện tích trồng ngô của Mỹ thấp hơn Trung quốc là 33,47 triệu ha, nhưng năng suất đạt 11,1 tấn/ha gấp 1,8 lần so với Trung Quốc, sản lượng đạt 370,96 triệu tấn đứng đầu thế giới. Kế tiếp là Brazil có diện tích 17,39 triệu ha, năng suất 5,62 tấn/ha và sản lượng đạt 97,72 triệu tấn. 


Bảng 1.3 Diện tích, năng suất, sản lượng của một số cây trồng chính trên Thế giới và Việt Nam năm 2017 (FAOSTAT 2019)


Ngô là cây lương thực quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Trên thế giới diện tích trồng ngô đứng thứ hai nhưng có năng suất và sản lượng cao nhất trong các cây ngũ cốc. So với lúa trên thế giới, năm 2017 năng suất 4,60 tấn/ha, sản lượng đạt 769,7 triệu tấn thì cây ngô năm 2017 cho năng suất  5,90 tấn/ha, sản lượng đạt 1164,40 triệu tấn (Bảng 1….).


Bảng 1….  Diện tích, năng suất, sản lượng của  lúa ngô sắn khoai lang trên Thế giới


Qua bảng 1… cho thấy năng suất ngô trên thế giới tăng nhanh từ 2,35 tấn/ha năm 1970 lên 5,90 tấn/ha năm 2017. Đến năm 2017, tổng diện tích ngô trên thế giới là 197,47 triệu ha, năng suất đạt 5,90 tấn/ha và sản lượng đạt 1.164,40 triệu tấn. So với các cây lương thực khác như lúa sắn và khoai lang thì ngô có diện tích cao hơn. Cũng giống lúa và sắn, diện tích trồng ngô tăng liên tục trên thế giới từ 1970 – 2017. Năng suất của ngô tăng nhanh hơn năng suất của lúa trên thế giới.

Đối với ngô, thu hoạch khi cây và ngô còn xanh vào giai đoạn chín sáp sẽ có sự khác biệt rất lớn so với ngô thu hoạch hạt khô (khối lượng ngô sinh khối thường cao hơn gấp 15-20 lần so với khối lượng hạt khô), đã và đang trở thành cây làm thức ăn ủ chua dùng trong chăn nuôi trong 2 thập kỷ gần đây trên thế giới. Tổng diện tích trồng ngô sinh khối trên thế giới ít hơn ngô lấy hạt rất nhiều. Tổng diện tích trồng ngô sinh khối ở Mỹ (2017) mới chỉ chiếm 7% tổng diện tích ngô toàn quốc (USDA, 2018). Bên cạnh đó các nước như Úc, New Zealand, Ân Độ cũng đang mở rộng diện tích trồng ngô sinh khối dùng làm thức ăn chăn nuôi.

1.2.2.      Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam

  Việt Nam, bên cạnh lúa gạo là cây lương thực quan trọng nhất, thì ngô, sắn, khoai lang cũng giữ một vai trò quan trọng trong cơ cấu cây trồng.

Bảng 1.8 Diện tích, năng suất, sản lượng bốn cây lương thực chính của Việt Nam (GSO 2019)


Giai đoạn đầu, sản xuất ngô ở Việt Nam còn nhỏ lẻ và phân tán, chủ yếu là tự cung tự cấp theo nhu cầu của hộ nông dân. Tại một số vùng miền núi do khó khăn về sản xuất lúa nước nên nông dân phải trồng ngô làm lương thực thay gạo. Các giống ngô được trồng đều là các giống truyền thống của địa phương, giống cũ nên năng suất rất thấp. Vào thập kỷ 60 của thế kỷ trước, diện tích ngô Việt Nam chưa đến 300 nghìn hecta,  năng suất chỉ đạt trên 1 tấn/ha, đến đầu những năm 1980 cũng không cao hơn nhiều, chỉ ở mức 1,1 tấn/ha, sản lượng đạt khoảng hơn 400.000 tấn do vẫn trồng các giống ngô địa phương với kỹ thuật canh tác lạc hậu.

Từ giữa những năm 1980, nhờ hợp tác với Trung tâm Cải tạo Ngô và Lúa mì Quốc tế (CIMMYT), nhiều giống ngô cải tiến đã được đưa vào trồng góp phần nâng năng suất ngô lên gần 1,5 tấn/ha. Ngành sản xuất ngô nước ta thực sự có những bước tiến nhảy vọt từ đầu những năm 1990 đến nay, do việc tạo được các giống ngô lai và mở rộng diện tích trồng ngô lai trong sản xuất, kết hợp áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác theo nhu cầu của giống mới.

Từ năm 2006, năng suất và sản lượng ngô của Việt Nam đã có những bước tiến nhảy vọt cao nhất từ trước đến nay. Tốc độ tăng trưởng diện tích, năng suất và sản lượng ngô của Việt Nam cao hơn nhiều lần của thế giới, lợi nhuận trồng ngô lai cao hơn hẳn các loại cây trồng khác.

Việc tăng cường sử dụng giống ngô lai cho năng suất cao kết hợp với các biện pháp kỹ thuật canh tác tiên tiến, áp dụng những thành tựu khoa học đã khiến cho năng suất ngô liên tục tăng trong giai đoạn 2004 - 2013 (từ 3,46 tấn/ha lên 4,44 tấn/ha). Sản lượng ngô năm 2013 đã tăng so với năm 2012 lên mức 5,19 triệu tấn. Đến năm 2017 năng suất ngô tăng lên 4,67 tấn/ha, tuy nhiên diện tích trồng giảm còn 1,1 triệu ha so với năm 2013 là 1,17 triệu ha nên sản lượng không tăng chỉ đạt 5,13 triệu tấn.

Tuy diện tích, năng suất và sản lượng ngô của chúng ta đều tăng nhanh nhưng so với bình quân chung của thế giới và khu vực thì năng suất ngô của nước ta còn rất thấp. Điều này đặt ra cho ngành sản xuất ngô Việt Nam những thách thức và khó khăn to lớn, đặc biệt là trong xu thế hội nhập và phát triển như hiện nay. Đòi hỏi đội ngũ chuyên môn cũng như các nhà khoa học trong cả nước tiếp tục lỗ lực, nghiên cứu ra những giống ngô và biện pháp kỹ thuật canh tác hiệu quả để nâng cao năng suất và chất lượng của sản xuất ngô Việt Nam, góp phần vào sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam.

Hình 1.2 Năng suất của một số cây trồng chính Việt Nam từ 1961 – 2014

Bảng … Diện tích (1000 ha) các loại cây trồng Việt Nam giai  đoạn 1995 – 2015


Sản xuất lương thực là giá đỡ cho nền kinh tế với diện tích hàng năm khoảng 9 triệu hecta, trong đó lúa gạo chiếm diện tích 7,84 triệu ha tức khoảng 85-87% tổng diện tích các loại cây trồng. Trong khi đó, cây ngô ở Việt Nam chiếm diện tích 1,18 triệu ha cao hơn diện tích trồng sắn 0,57 triệu ha hay diện tích trồng khoai lang 0,13 triệu ha (Bảng….) . 

Diện tích trồng ngô của nước ta trong những năm gần đây tăng mạnh hơn năng suất, điều này có liên quan đến hai nhân tố có tính quyết định đó là “sản xuất ngô Đông trên đất hai lúa ở Đồng bằng Bắc Bộ và sự bùng nổ ngô lai ở các vùng trồng ngô trong cả nước” (Ngô Hữu Tình, 2003). Trong đó diện tích ngô nếp chiếm khoảng 10% diện tích trồng ngô của cả nước, chủ yếu là giống ngô địa phương, thụ phấn tự do hay lai không quy ước (Phan Xuân Hào, 2006).

Thị trường xuất khẩu ngô chính của Việt Nam

Vùng canh tác ngô chính ở Việt Nam

Bảng 1. 19 Diện tích ngô (triệu ha) cả năm phân theo khu vực ở Việt Nam 


Bảng 1. 21 Sản lượng ngô (tấn/ha) cả năm phân theo khu vực ở Việt Nam  


Bảng 1.20 Năng suất ngô (tấn/ha) cả năm phân theo khu vực ở Việt Nam 


Top 11 tỉnh có diện tích (nghìn ha) trồng ngô nhiều nhất Việt Nam


Top 13 tỉnh có sản lượng ngô (nghìn tấn) nhiều nhất Việt Nam

 

Top 10 tỉnh có năng suất ngô (tạ/ha) nhiều nhất Việt Nam

 

Tình hình sản xuất ngô dùng trong chăn nuôi ở Việt Nam

Ở nước ta, ngô là cây lương thực, thực phẩm quan trọng, là cây nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, ngô còn là cây nguyên liệu để sản xuất Ethanol - xăng sinh học E5 sạch với môi trường, cây năng lượng của thế kỷ 21. Vì vậy, ngô đã và đang được trồng ở hầu khắp 8 vùng sinh thái nông nghiệp của cả nước. Mặc dù vậy, cây ngô ở Việt Nam có những bước phát triển thăng trầm, những năm gần đây nhờ có nhiều chính sách phù hợp của Đảng và Chính phủ, nhất là áp dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật mới về giống, biện pháp kỹ thuật canh tác và liên kết sản xuất giữa trồng trọt, chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi bò sữa nên cây ngô đã có bước tiến dài trong tăng trưởng về diện tích, năng suất, sản lượng và giá trị kinh tế. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam từ 1990-2017 được trình bày ở Bảng 1.14.

Update Số liệu ở Bảng 1.14 cho thấy: sau 27 năm (1990-2017) diện tích ngô tăng 2,6 lần, năng suất tăng 3,0 lần và sản lượng tăng 7,6 lần so với năm 1990.

Nguyên nhân tăng diện tích, năng suất, sản lượng ngô giai đoạn 1990-2017 ở nước ta là do lợi thế cạnh tranh của cây ngô cao hơn một số loài cây trồng ngắn ngày khác nên hiệu quả trồng ngô cao, đặc biệt là việc đưa nhanh các giống ngô lai mới có ưu thế lai cao vào trồng trong sản xuất với tốc độ siêu tốc. Năm 1991 diện tích trồng bằng giống ngô lai chỉ đạt 500 ha, chiếm 0,1% tổng diện tích trồng ngô cả nước, đến năm 2017 tỷ lệ diện tích trồng bằng giống ngô lai chiếm 95% tổng diện tích trồng ngô cả nước, nhiều nơi như Sơn La, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Đắk Lắk, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, An Giang, Trà Vinh trồng 100% diện tích trồng bằng giống ngô lai năng suất cao.

Bảng 1. 22 Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam giai đoạn 1990-2017 (GSO, 2017) (Bảng 1.14 )

Chăn nuôi gia súc, gia cầm ở Việt Nam những năm qua đang được quan tâm phát triển, với chiều hướng gia tăng và khá ổn định về số lượng. Tổng đàn gia súc, gia cầm trong 10 năm gần đây (từ năm 2008-2017) được trình bày ở Bảng 1.15.

 

1.3.Thành phần dinh dưỡng và giá trị kinh tế của ngô gạo

(Lê Quý Kha 2018)

1.3.1 Giá trị dinh dưỡng

Bảng 1.1 Giá tri dinh dưỡng của ngô gạo (% chất khô) so với một số cây lấy hạt khác

 (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008)

Thành phần dinh dưỡng của hạt ngô vàng (Bảng 2.1) so với gạo trắng đều cao hơn gạo rõ rệt ở các chỉ tiêu: tinh bột, chất đạm, chất béo, vitaminA, vitamin B1, vitamin B2, vitamin C, nhiệt lượng (calo), cụ thể:

Bảng 1. 26 Thành phần hóa học của hạt ngô so với gạo phân tích 100 gam. Nguồn: Cao Đắc Điểm, 1988. (Bảng 2.1.)

Tinh bột của ngô hạt vàng cao hơn gạo trắng gấp 1,05 lần, chất đạm của ngô hạt vàng cao hơn gạo trắng gấp 1,2 lần, chất béo của ngô hạt vàng cao hơn gạo trắng gấp 2,08 lần. Vitamin B1 của ngô hạt vàng cao hơn gạo trắng gấp 1,4 lần, vitamin C của ngô hạt vàng cao hơn gạo trắng gấp 7,7 lần. Nhiệt lượng của ngô hạt vàng cao hơn gạo trắng gấp 1,03 lần.

Thành phần dinh dưỡng của các thành phần chính trong hạt ngô được trình bày ở Bảng 2.2

Bảng 1. 27 Thành phần hóa học (gán đúng) của các thành phần chính trong hạt ngô (%). Nguồn: Ngô Hữu Tình, 2009. (Bảng 2.2.)

Thành phần hóa học gồm protein, chất béo, tinh bột, đường của bộ phận mầm ngô là cao nhất, tiếp đến trong nội nhũ hạt ngô và cuối cùng là vỏ hạt ngô.

Thành phần hóa học như chất xơ, tro của bộ phận vỏ hạt ngô là cao nhất, tiếp đến là mầm ngô và cuối cùng là nội nhũ ngô.

Hàm lượng axit amin không thay thế của protein nội nhũ và protein mầm được trình bày ở Bảng 2.3

Bảng 1. 28 Hàm lượng axit amin không thay thế của protein nội nhũ và protein mầm. Nguồn: Ngô Hữu Tình, 2009. (Bảng 2.3.)

Bảng 1. 29 Giá trị dinh dưỡng cây ngô trong các giai đoạn khác nhau. Nguồn: Pozy P., 2002. (Bảng 2.4.)

Hàm lượng các loại axit amin không thay thế của protein mầm gồm Tryptophan, Threonin, Isoleucin, Leucin, Lyzin, Axit amin chứa lưu huỳnh, Phenylalanin, Tyrosin, Valin đều cao hơn Protein nội nhũ và đều cao hơn hoặc bằng hàm lượng axit amin theo Tiêu chuẩn của FAO/WHO.

Giá trị dinh dưỡng của cây ngô thu sinh khối phụ thuộc nhiều vào thời gian thu hoạch cây, được thể hiện ở Bảng 2.4

Trồng ngô sinh khối làm thức ăn cho gia súc có thể thu hoạch nhiều đợt ứng với các giai đoạn sinh trưởng, phát triển khác nhau: Khi cây 9-10 lá, xoắn nõn, trỗ cờ, ra ngô bao tử, chín sữa. Tuy nhiên, việc thu hoạch ngô sinh khối làm thức ăn tươi cho gia súc vào giai đoạn chín sữa là lý tưởng nhất (Vũ Duy Giảng và cs., 2008) bởi các lý do sau: Giai đoạn này, cây ngô cho khối lượng sinh khối cực đại; Cây ngô vẫn còn mềm, giòn, có vị đậm, mùi thơm đặc trưng của ngô; Cây ngô đã tích lũy đầy đủ dinh dưỡng trong thân, lá và ngô ngô, hàm lượng protein thô và lipid đạt cao nhất. Chỉ số đơn vị tạo sữa (UFL) trong cây lúc này đạt cao nhất.

1.3.2 Giá trị sử dụng

(Dương Minh, 1999)

Cây ngô có thể được sử dụng và chế biến đến trên 500 sản phẩm chính (Purseglove, J.w., 1981). Các bộ phận của cây được sử dụng gồm có:

Thân lá

Thân ngô khô được dùng làm bột giấy (nhờ có nhiều xơ). Thân lá tươi được dùng ủ tươi để nuôi đại gia súc (thường thu hoạch trong giai đoạn trái chín sữa). Nhiều thí nghiệm cho biết khi nuôi bò sữa, chỉ cần 5kg thân ủ tươi là đủ để có lkg sữa. Kết quả phân tích thành phần dinh dưỡng có trong thân, hạt ngô và các loại cây họ Đậu khác của Đại học Cornell (Hoa kỳ) ghi nhận được như sau (bảng 3):

Bảng 1. 30 Thành phần dinh dưỡng trong hạt và thân ngô so vói đậu nành và cồ Linh lăng  (Bảng 3)

Vỏ trái (lá bi, lá mo)

Là nguyên liệu cho ngành tiểu thú công nghiệp để làm thảm lót nhà, ngành này hiện đang được phát triển ở nước ta. Phần vỏ lụa bên trong được dùng làm giấy vấn thuốc cigar Miến điện (Purseglove, J.w., 1981).

Lõi (cùi ngô)

Ở những loại ngô có lõi cứng (cob corn), lõi được dùng bán công nghiệp để làm ống vố (pipe). Ngoài ra, trong hóa công nghiệp, người ta đã trích ra từ lõi ngô chất Furfuran đế làm dược liệu và thuốc trừ sâu. Lõi còn được dùng làm than hoạt tính và trích dầu đốt.

Râu ngô

Được dùng trong dược liệu làm thuốc lợi tiểu và cầm máu. Tác dụng lợi tiểu của râu ngô là do sự hiện diện của acide maizenic và các ion K+ (270ppm) , Ca++ (14ppm) đã kích thích hoạt động của não (theo Mc Grieve). Tác dụng cầm máu là do hiện diện các Vitamine, đặc biệt là Vitamine K (16 đon vị sinh lý/g). Râu ngô còn kích thích sự điều tiết của túi mật, nên cũng được dùng để trị bệnh sưng gan và sưng túi mật (10 - 20 g/ng).

Hạt

Là phần chú yếu và có giá trị kinh tế nhất. Hạt ngô được sứ dụng làm:

Lương thực và thực phẩm cho người: Ngô non được dùng nấu súp, chè, xôi, luộc, nướng hay rang nổ... Hạt ngô là lương thực chính của dân Nam Mỹ (bánh corn tlake) và nhiều sắc dân ở Phi châu (Nam Phi, Rhodesia, Kenya, Angola, Zambia, Nigeria, Ai Cập...), ở Việt Nam, ngô là lương thực chính của dân thiểu số tại Trung du. Ngô ngọt (sweet corn) được dùng để đóng hộp.

Thức ăn gia súc: Tiêu thụ khoảng 70% tổng sản lượng ngô trên thế giới. Ngô chiếm tỷ lệ khoảng 40-60% trong các khẩu phần thức ăn hỗn hợp chăn nuôi. Để sản xuất 1 kg thịt, phải cần 2,5 kg ngô/bò, 2,25 kg/gà, 3 kg/heo và 4 - 6 kg/cá.

Nguyên liệu công nghiệp: Bột ngô được sứ dụng trong công nghiệp (chiếm 20% tổng sản lượng) đế làm: Dextrine (dán giấy, carton, da, hồ vải...), glucose (làm sirop, bánh, dược liệu...), rượu (whisky và bourbon Mỹ), bia, giấm (acetic acid), alcool (ethyl, propyl, butyl), acetone, glycerine, glutene (làm keo, tơ sợi hóa học, chất dẻo, shellac,sơn... điều chế từ Zein), môi trường nuôi cấy kháng sinh. Tinh bột ngô nếp dùng làm tapioca (để làm tá dược). Dầu ngô dùng làm margarine.

1.4. Nguồn gốc vùng phân bố phân loại cây ngô

(Dương Minh 1999)

1.4.1 Nguồn gốc vùng phân bố

Cây ngô có tên khoa học là Zea mays L., thuộc chi Maydeae, họ Gramineae. Từ thế kỷ 16 khi Colombus mang hạt giống từ châu Mỹ về thì sản xuất ngô đã lan tràn khắp thế giới và trở thành loại cây ngũ cốc quan trọng cung cấp lương thực cho loài người. Hiện trên thế giới đang tồn tại hai hệ thống phân loại đối với loại Zea.

 

Ở Ngô, Tông Maydeae khác với các tông khác trong họ Gramineae nhờ có hoa đơn tính. Tông này gồm có 8 giống (genus):

Năm giống có nguồn gốc ở châu Á là:

-    Polytoca: Phân bố ở Ấn Độ, Indonesia, Philippines và New Guinea.

-    Chionachne: Phân bố từ Ấn Độ đến Úc.

-    Trilobachne: Phân bố ở Ấn Độ.

-    Sclernchne: Phân bố ở Java và Timore.

-    Coix: Phân bốchâu Á nhiệt đới và Polynesia. Loài Coix lachryma Jobi (bo bo, hay còn gọi là Ý dĩ) được trồng ở nước ta làm lương thực và dược liệu.

Ba giống có nguồn gốc từ Châu Mỹ nhiệt đới là:

-    Tripsacum: Phân bố Mexico, Brazil. Giống này có số nhiễm thể n=18 hay 36. Mọc hoang dại hoặc trồng làm đồng cỏ.

-    Euchlaena: Phân bố Nam Mexico và Guatemala, số nhiễm thế n=10 hay 20.

-     Zea: Chỉ có một loài duy nhất: Zea mays.

Các giống có nguồn gốc Mỹ châu được xem là có liên hệ gần gũi với ngô.

Cây ngô có lẽ được con người canh tác từ hàng ngàn trước: Các khảo cổ khai quật tại Batcave (tiểu bang New Mexico Hoa Kỳ, 1948) tìm thấy các mảnh hạt ngô vỏ nằm tầng niên đại cách nay 5600 năm. Bằng phương pháp dùng Carbon C14, Mengelsdorf & Reeves (1952) cũng tìm thấy những mảnh trái và hạt ngô hóa thạch xưa cách nay 4500 năm. Theo Sprague (1955), các khảo cổ ở Mexico cũng tìm gặp các hạt phấn hoa của giống Zea nằm tầng văn hóa có niên đại xưa 6000 - 8000 năm.

Cây ngô có lẽ xuất phát từ khu vực Trung Mỹ (vùng Bắc Columbia), được con người thuần hóa tại Nam Mexico và Guatemala (Mangelsdorf & Reeves, 1959) từ trước thời Christophe Colomb. Nó là loại cây trồng gắn liền với nền văn minh của dân Aztec và Maya ở Mexico và Trung Mỹ (Purseglove, 1981). Một vài nghiên cứu khác lại nghi ngờ rằng cây ngô có lẽ bắt nguồn từ Peru, Bolivia và Ecuador vì thấy các nơi này hiện diện nhiều ngô địa phương.

Hiện có nhiều giả thuyết về sự hiện diện cúa loài Zen mays trong thiên nhiên. Khi xưa, người ta nghĩ rằng cây ngô được tạo nên do loài Euchlaena mexicana lai với một loài hoang dại nào đó (Harshberger, 1893 và Collins, 1912). Tuy nhiên, các nghiên cứu của Mangelsdorf và Reeves (1938, 1939, 1945) khi cho lai giữa Enchlaena với Tripsacum và phân tích nhiễm sắc thể đã bác bỏ giả thuyết này.

Theo Montgomery (1906), Weatherwax (1935, 1950, 1954) thì Zea, TripsacumEuchlaena tuy cùng tổ tiên nhưng đã phát triển theo các mức độ khác nhau.

Một vài giả thuyết khác còn cho là cây ngô xuất hiện từ Đông nam Á và do Coix (bo bo, ý dĩ) lai với cây lúa miến (cao lương, sorghum) (Anderson,E.1945) dựa vào cơ sở tế bào học. Tuy nhiên, giả thuyết này cũng đã bị bác bỏ.

Ngày nay, dựa vào các mảnh hóa thạch đã khai quật và các hình vẽ trên những mảnh đồ gốm của người Peru cổ,ngưòi ta tạm cho rằng cây ngô bắt nguồn từ cây ngô vỏ (Zea mays var tunicata). Loại ngô này có lẽ xuất phát từ rặng núi Andes ỏ châu Mỹ. Qua thời gian và chọn lọc đã phân hóa ra các thứ ngô trồng hiện nay.

Khi tìm ra Châu Mỹ (1492), Christophe Colomb đã mô tả đến cây ngô tại Cuba. Từ đó ngô được du nhập sang châu Âu từ 1493, trồng trong các vườn nhỏ ở Tây Ban Nha, rồi phát triển dần sang Bồ Đào Nha, Pháp, Ý, vùng Đông Nam Âu châu và tiến sang Bắc và Tây Phi từ thế kỹ 16 do các người buôn nô lệ. Cũng từ thế kỹ 16, ngô được trồng đầu tiên tại Ấn Độ và Trung Quốc của  châu Á.

Tại Việt Nam, có lẽ ngô đã được Trần Thế Vinh mang về từ Trung Quốc khi ông đi sứ sang đấy vào cuối thế kỹ 17 (khoảng các năm 1662-1723) (theo Lê Quý Đôn). Một số giả thuyết khác thì cho là cây ngô và cây mè đều do ông Phùng Khắc Khoan (triều vua Lê Kính Tông) mang về từ đất Thục (Trung Quốc) và trồng đầu tiên tại Sơn Tây. Quyển "Vân Đài loại ngữ" của Lê Quý Đôn cũng đã đề cập đến loại ngô vàng trồng tại Sơn Tây.

 

Ngô có nguồn gốc từ Trung Mỹ song cây ngô đã thích nghi nhanh với những điều kiện sinh thái rất khác nhau. Ớ Bắc bán cầu, ngô có thể trồng ở Đan Mạch đến vĩ tuyến 55°-56°, còn ở Liên Xô cũ và Canada tới vỹ tuyến 58°. Ớ Nam bán cầu, ngô được trồng ở New Zealand đến vĩ tuyến 42°-43° (Humlam John, 1942, Necula GH. và cs, 1957). Ngô cũng là cây trồng thích ứng rộng. Theo Necula G. H. (1957) ngô có thể trồng ở độ cao 3900m. Tuy nhiên càng xa khỏi xích đạo thì độ cao càng giảm. Ví dụ như Peru (16° nam) ngô trồng được ở độ cao 3900m, ở Bắc Carolia (34°-37° bắc) trồng được ở 1200m, ở Châu Á như thung lũng Kasmir ở 2000m, còn ở Châu Âu (khoảng 45°-48° bắc) ở độ cao 500- 800m [10].

 

1.4.2 Phân loại cây ngô

Có nhiều cách phân loại ngô: Theo đặc tính nông học, công dụng hoặc chu kỳ sinh trưỏng, trong đó phân loại theo đặc tính nông học được sử dụng phổ biến. Cách phân loại này dựa vào đặc điếm của hạt, hình dạng bên ngoài, cấu trúc và tỷ lệ tinh bột của hạt. Phương pháp này đã được Kernike đề nghị đầu tiên và được Sturtevant, E.L.(1920) hoàn chỉnh và chia làm 6 nhóm ngô chính. Sau đó, Kulesh bổ sung thêm nhóm ngô nếp, rồi Kulesov, N.N. và Kojukhov, I.V. thêm vào 2 nhóm (Nữa Răng Ngựa và Đường Bột) nên tổng cộng có 9 nhóm. Các nhóm có đặc tính như sau:

Ngô Vỏ (ngô bọc: pod corn): Zea mays var. Tunicata

Là dạng ngô nguyên thủy, chỉ trồng để nghiên cứu vì cho năng suất rất kém, không có giá trị kinh tế. Mỗi hạt trên trái đều có vãy bao bọc bên ngoài (vãy do các dỉnh và trấu phát triển tạo thành). Phát hoa đực (cờ) thường dễ bị mang hoa cái tạo hạt (hiện tượng hồi tổ).

Ngô Răng Ngựa (dent corn): Zea mays var. indentata

Là loại ngô có trái và hạt tương đối lớn. Phần tinh bột cứng và trong suốt (gọi là phôi nhũ sừng) nằm ở hai cạnh bên hạt, trong lúc ở đầu và phần giữa hạt là tinh bột mềm và đục (gọi là phôi nhũ bột). Khi trái chín khô, phần phôi nhũ bột khô nhanh hơn phôi nhũ sừng nên hạt ngô bị lõm ở đầu xuống như răng ngựa nên gọi là ngô Răng Ngựa. Loại ngô này được trồng nhiều ở Hoa Kỳ và vùng bắc Mexico (nhưng ít quan trọng bằng ngô đá ớ các vùng khác). Các giống: Tainan-5, Tainan-11 (của Đài Loan), Western Yellow (Nigeria)... đã nhập vào miền Nam nước ta đều thuộc nhóm ngô này.

Ngô Đá (ngô tẻ: flint corn): Zea mays var. indurata

Hạt ngô hơi nhổ hơn ngô Răng Ngựa, có đầu hơi hòn, gồm phần lớn là phôi nhũ sừng bao bọc bên ngoài và chỉ có một ít là phôi nhũ bột ở bên trong. Do đó hạt cứng và láng, kháng mọt và côn trùng phá hại hơn ngô Răng Ngựa. Lượng tinh bột trong hạt gồm 21% là amylose và 79% là amylo-pectine. Nhóm ngô này trồng phổ biến ở Âu, Á, Trung và Nam Mỹ . Các giống điển hình có ở miền Nam nước ta là: Guatamela Golden, VM-1...

Ngô Nổ (pop corn): Zea mays var. everta

Loại này có rái và hạt tương đối nhỏ. Phôi nhũ ở hạt hầu như hoàn toàn là phôi nhũ sừng, có rất ít tinh bột mềm. Tinh bột (chiếm 61-72%) gồm 23% là amylose và 72% amylo-pectine, gồm các hạt tinh bột hình tam giác, sắp xếp kề nhau rất chặt chẽ nên hạt rất cứng. Ở nhiệt độ cao (khoảng 200°C) khi rang, hạt bị nổ ra và tăng thể tích lên gấp 15-20 lần (tùy giống và ẩm độ hạt). Nguyên nhân là nhờ lớp phôi nhũ sừng bên ngoài có đặc tính dai và đàn hồi, khi gặp nhiệt độ cao nó có thế chịu được áp suất hơi nước bên trong, nhưng khi vượt quá giới hạn thì lớp này bị vỡ ra, hạt nổ làm tung khối tinh bột bên trong ra ngoài. Vì vậy, nếu ẩm độ hạt quá cao, quá thấp, hạt chưa chín hoặc chứa nhiều phôi nhũ bột đều làm ngô khó nổ khi rang. Tuỳ giống, hạt ngô Nổ có hai dạng hạt: Loại dạng đầu tròn (pearl popcorn) và dạng đầu nhọn (rice popcorn). Các loại ngô Nổ thường trồng và tiêu thụ (đóng hộp hạt khô trộn gia vị) rất hạn chế tại Hoa kỳ và Mexico.

Ngô Nếp (ngô sáp: waxy corn): Zea mays var. ceratina

Hình dạng hạt tương tự như ngô Đá, nhưng hạt đục hơn. Hạt cứng, láng, nhưng không bóng. Tinh bột gồm toàn amylo-pectine (95 - 100%) là những chuổi tinh bột có phân nhánh, không ăn màu với Iode. Khi bị thủy phân, tinh bột dễ cho ra Dextrine. Nhóm ngô này là một loại đột biến của ngô đá, và có lẽ xuất phát từ vùng Vân Nam và Quảng Tây của Trung quốc từ thế kỹ 19 (Lưu Trọng Nguyên, 1965). Đặc tính nếp là do gene lặn waxy (wx/wx) nằm ở nhiễm sắc thể số 9 quyết định. Do phát xuất từ Đông Nam Á, loại ngô này trồng phố biến ở nước ta (với các giống: Nù, Nếp Long Khánh, Nếp tím Ban Mê Thuộc... Tinh bột ngô nếp có thế dùng để sản xuất tapioca dùng trong dược liệu và chăn nuôi.

Ngô Bột (floury corn): Zea mays var. amylaceae

Hạt to, hầu như cấu tạo hoàn toàn là phôi nhũ bột. Loại ngô này có nguồn gốc từ Peru và được trồng nhiều ở Nam Mỹ (Columbia, Peru, Bolivia), Hoa Kỳ và Nam Phi tại các vùng khô hạn. Ngô bột thường trồng để lấy tinh bột nhờ phôi nhũ mềm, dễ xay nghiền (nhưng hạt mềm nên dễ bị mọt khi tồn trữ). Đây là nhóm ngô trồng tương đối xưa nhất.

Ngô Ngọt (ngô đường: sweet corn): Zea mays var. saccharata

Hạt nhăn nheo, gồm phần lớn là phôi nhũ sừng, có nhiều dextrine, lipid và protein. Lượng tinh bột trong hạt tương đối thấp, phần lớn là polysaccharide (19-31%) tan hong nước nên hạt không ăn màu với Iode. Khi chín sữa, hạt chứa 15-18% đường nên thường được thu hoạch lúc còn xanh để ăn tươi hoặc làm ngô rau đóng hộp (ăn lõi) lúc phun râu. Lượng đường trong hạt là do gene sugary (su/su) nằm ở nhiễm sắc thể 4 (hoặc 6) quyết định. Gene này mang tính lặn đối với dạng đá hay răng ngựa và trội đối với dạng bột. Gene sugary ngăn cản sự biến đổi đường thành tinh bột (ức chế enzyme ADP.GPy: Adenosine Diphosphate Glucose Pyrophosphorylase). Vì hạt chứa ít tinh bột và nhiều nước (ngay cả khi chín) nên khi phơi khô (tồn trứ ở 8% ẩm độ) hạt bị nhăn nheo, khi gieo nảy mầm kém và cây con sinh trưởng yếu, phải chăm sóc kỹ. Vùng Tiền Giang còn trồng giống ngô ngọt hắng Pajimaka (nhập từ Hoa kỳ).

Ngô Nữa Răng Ngựa: Zea mays var. semi-indentat

Là dạng trung gian, lai giữa ngô Đá và ngô Răng Ngựa. Phôi nhũ bột cũng có ở đầu và bên trong hạt như ngô Răng Ngựa, nhưng chi làm đục đầu hạt chứ không làm đầu hạt bị lõm xuống. Đây là dạng trung gian, còn tương đối chưa ổn định. Điển hình ta có các giống: Thái sớm hỗn hợp (Thái Lan), TSB-1 (Suwan-1 , Thái Lan), Gangar-5 (Ấn Độ), Nha Hố hỗn hợp (Việt Nam)...

Ngô Đường Bột: Zen mays var. amylea-saccharata

Phần trên hạt là dạng phôi nhũ sừng, nhăn nheo của ngô Ngọt, nhưng phần dưới hạt gồm toàn phôi nhũ bột cúa ngô Bột. Có nguồn gốc từ Nam Mỹ. It phổ biến.

Ngoài ra, một số tác giá còn phân loại thêm:

-        Z. mays var. japonica Koern: Lá sọc.

-        Z. mays var. gracillima  Koern: Dạng lùn.

 

CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

No comments:

Post a Comment