Chương 3
KHÍ
HẬU VÀ ĐẤT TRỒNG NGÔ
3.1 Khí hậu: ánh sáng, nhiệt độ, lượng mưa, gió, nguồn nước
3.2 Đất ngô Việt Nam sự phân bố và tính chất đất cơ bản
3.3 Những vùng trồng ngô và vụ ngô chính ở Việt Nam .
3.1. Khí hậu: ánh sáng, nhiệt độ, lượng mưa, gió, nguồn nước
Dẫn nguồn .....
Sự sinh trưởng và phát triển của cây ngô có liên quan mật thiết với điều kiện ngoại cảnh. Mối liên hệ này có ý nghĩa lớn trong thực tế sản xuất. Đó chính là cơ sở để tìm ra những biện pháp kỳ thuật điều khiển sự sinh trưởng và phát triển của cây ngô đế đạt năng suất cao. Những yếu tố ngoại cảnh chủ yếu ảnh hưởng tới đời sống cây ngô là nhiệt độ, ánh sáng, nước và đất.
Nhiệt độ
Phạm vi nhiệt độ để cho cây ngô sinh trưởng được biến động từ 9°C - 45°C, trong đó khoảng nhiệt độ từ 25 - 28°C là nhiệt độ tối thích cho cây ngô phát triển. Nhiệt độ cao, ngô qua các bước phát dục nhanh, thời gian sinh trưởng bị rút ngắn. Nhiệt độ thấp, thời gian sinh trưởng bị kéo dài ra. Việc rút ngắn hay kéo dài thời gian sinh trưởng đều ảnh hưởng tới năng suất và không có lợi cho sản xuất. Yêu cầu của cây ngô với nhiệt độ của từng giai đoạn là: Nhiệt độ tối thiểu cho hạt nảy mầm là 9 - 10°C, tối đa là 30 - 32°C. Giai đoạn trồ cờ, tung phấn, phun râu, nhiệt độ trên 30°c sẽ ảnh hưởng rát xấu tới năng suất là do hạt phấn bị mất sức sống, râu ngô bị khô, khó tiếp nhận hạt phấn gây khuyết hàng, khuyết hạt.
Nước và ẩm độ đất
Ngô là cây trồng cạn, nhưng nhu cầu đối với nước của ngô cũng rất lớn và quan trọng không kém các yếu tố ngoại cảnh khác Các thời kỳ sinh trưởng khác nhau yêu cầu độ ấm đất cũng khác nhau:
- Giai đoạn nảy mầm, cần ẩm độ đất 70 - 80%.
- Giai đoạn ngô có 5 - 6 lá có thể chịu hạn (ẩm độ đất 60%), nếu hạn ở giai đoạn này, bộ rễ sẽ ăn sâu, cây ngô sẽ đứng vững hơn.
- Giai đoạn 7 - 8 lá đến trỗ cờ: Giai đoạn này cây cần nhiều nước nhất, vì ngô đang ở thời kỳ sinh trưởng mạnh. Lượng nước cần chiếm 60% so với tổng lượng nước yêu cầu, đặc biệt ngô cần nước nhiều nhất vào trước lúc trỗ cờ (xoáy nõn) 10 - 15 ngày. 1 ha ngô lúc có 7 - 13 lá cần 35 - 38 m3 nước trên ngày, cũng 1 ha ngô vào trước lúc trỗ cờ cần 65 – 70 m3/ngày. Độ ẩm đất tốt nhất ở giai đoạn này là 75 - 80%. Nếu đất bị hạn làm cho cây thấp, lóng ngắn, diện tích lá nhỏ, số lượng hoa đục và hoa cái hình thành ít, ... nhất là thiếu nước vào giai đoạn thụ phấn, thụ tinh ảnh hưởng xấu tới năng suất. Ở giai đoạn trước và sau khi phun râu 4 tuần là giai đoạn cây mẫn cảm với sự thiếu nước và dinh dưỡng. Bởi vậy, đây là giai đoạn rất cần phải tưới nước cho ngô. Ngược lại, nếu ẩm độ quá cao (mưa nhiều) làm cho hạt phấn bị trôi hoặc nứt vỡ, ảnh hưởng đến chất lượng phấn, ẩm độ quá cao, cây dễ bị đổ. cần căn cứ vào điều kiện cụ thể mà tưới tiêu cho ngô một cách họp lý.
- Giai đoạn chín: Yêu cầu về nước của ngô dần dần giảm xuống. Lượng nước cần cho giai đoạn chín chỉ chiếm 15 - 25% so với tổng lượng nước yêu cầu. Ở giai đoạn này nước chủ yếu phục vụ cho quá trình vận chuyển các chất hữu cơ về hạt. Trong thời kỳ chín sữa, nếu thiếu nước, hạt sẽ không no đầy. Thời kỳ chín sáp và chín hoàn toàn, nếu thiếu nước, hạt sẽ bị chín ép. Ngược lại nếu ẩm độ quá cao sẽ làm cho hạt chín chậm, dễ bị nảy mầm và sâu bệnh xâm nhập. Ẩm độ đất trong giai đoạn này cần từ 80 - 90% là thích hợp.
Ánh sáng
Ánh sáng mặt trời là nguồn năng lượng cơ bản cho quang hợp của cây ngô. Quá trình quang hợp tạo nên 90 - 95% chất khô trong cây. Ngô là cây ưa sáng, nó chỉ sinh trưởng mạnh và cho năng suất cao trong điều kiện ánh sáng đầy đủ và cường độ ánh sáng mạnh. Cây ngô thích ánh sáng trắng. Trong điều kiện ánh sáng đỏ, cây sẽ vươn lóng dài, yếu ớt, tỷ lệ cây không ngô cao, kéo dài thời gian sinh trưởng. Nếu trồng dày, thiếu ánh sáng, khả năng tích lũy chất khô kém, trái nhỏ, cho năng suất thấp. Mặt khác, kha năng sử dụng quang năng ở ngô lại thấp chỉ bằng 2 - 5% ánh sáng tự nhiên cho quá trình quang hợp. Nên trong thực tế sản xuất, cần phải trồng với mật độ họp lý để cây ngô nhận được đủ nguồn ánh sáng cho quang hợp, tránh hiện tượng che khuất lẫn nhau, tranh chấp ánh sáng giữa các cá thể trong quần thế ruộng ngô, nhưng phải tận dụng được nguồn quang năng, tránh lãng phí ánh sáng.
Ngô là cây ngày ngắn, nhưng mức độ phản ánh với ánh sáng ngày ngắn không chặt, cho nên có thể trồng ngô bất cứ lúc nào trong năm. Trong đời sống cây ngô, cường độ ánh sáng có vai trò quan trọng hơn độ dài ngày. Những giống ngô có hệ số sử dụng quang năng cao, có lá to, dày, góc độ giữa lá và thân nhỏ, lá xanh lâu, đặc biệt là lá mang ngô xanh lâu là những giống ngô có thê thâm canh tăng năng suât..
1.2.Đất ngô Việt Nam
3.2.1 Sự phân bố đất trồng ngô và tính chất đất cơ bản
Tính chất lý, hóa của đất có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sống của bộ rễ và năng suất ngô, vì đất là nơi chứa nước và chất dinh dưỡng cần thiết cho cây. Một số đặc tính lý hóa ảnh hưởng đến đời sống của cây ngô như sau:
- Thành phần cơ giới đất: Cây ngô có thể trồng trên nhiều loại đất có thành phần cơ giới khác nhau, song tốt nhất là các loại đất có thành phần cơ giới nhẹ, ở đó hệ thống rễ phát triển thuận lợi, khối lượng lớn và bề mặt hoạt động rộng. Đối với ngô loại đất thích hợp nhất có cấu trúc lý học trung bình như đất phù sa cổ hoặc phù sa ven sông. Ở loại đất có thành phần cơ giới nặng hơn như chân đất 2 vụ lúa một vụ ngô thì hệ thống rễ phát triển chủ yếu ở lóp đất mặt, điều này cần được lưu ý trong kỹ thuật canh tác ngô cho phù hợp. Cấu trúc lý học của đất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của bộ rễ, tới chế độ nước và dinh dưỡng trong đất.
- Độ thoáng của đất: Bộ rễ ngô chỉ làm tốt nhiệm vụ hút nước và dinh dưỡng trong điều kiện đất có đầy đủ ôxy, thông thoáng và đủ ấm. Cây ngô không thể sinh trưởng tốt trên đất hạn, úng hoặc bí chặt nồng độ ôxy thấp (dưới 2%). Ôxy trong đất rất cần cho sự hình thành các cơ quan của rễ, để tạo ra 1 gram vật chất khô của rễ ngô cần từ 0,35 - 1,45 mg ôxy. Ôxy cần cho sự hô hấp của rễ, mà quá trình này đóng vai trò quan trọng trong việc hút nước và hút dinh dưỡng của ngô. Đất bị úng vài ngày (hàm lượng ôxy giảm thấp) các quá trình hoạt động của rễ có thể bị ngừng làm cho rễ bị đen lại và chết. Ngoài ra ôxy trong đất cần cho hệ sinh vật hảo khí và một số quá trình ôxy hóa có lợi cho đời sống của ngô. Khi đất thiếu ôxy thì các quá trình ôxy hóa trong đất sẽ xãy ra theo chiều hướng yếm khí mà một số sản phẩm của quá trình này có hại cho sinh trưởng của cây. Ở rễ ngô có khả năng cố định CO2 trong đất cao lại ức chế hoạt động sống của rễ. Đối với đất có tỷ lệ O2/CO2 = 2 - 4 lần mới có lợi cho rễ ngô. Trong thực tế sản xuất cần làm cho đất luôn luôn tơi xốp, có độ thoáng khí lớn mới đủ ôxy cho rễ thông qua việc chọn đất thích hợp, làm đất kỹ vun xới kịp thời cung cấp nước và dinh dưỡng hợp lý
3.2.2 Đất ngô và dinh dưỡng khoáng cho cây
Ngô là loại cây có khả năng đồng hóa dinh dưỡng cao, phản ứng rõ rệt với các chế độ dinh dưỡng khác nhau. So với một số cây trồng khác, cây ngô có nhu cầu dinh dưỡng cao hơn để tạo ra một đơn vị sản phẩm. Theo nhiều kết quả nghiên cứu, các nguyên tố dinh dưỡng ngô cần được chia làm 3 nhóm:
- Nhóm siêu vi lượng: Bari, Silic, Coban, Crom,...
- Nhóm vi lượng: sắt, Mangan, Bo, Đồng, Kẽm, ...
- Nhóm đa lượng gồm: Đạm, Lân, Kali, canxi, Magiê, ...
Trong đó nhóm các nguyên tố đa lượng là quan trọng nhất và phải cung cấp cho ngô một lượng đáng kể mới đạt năng suất cao. Ví dụ để đạt năng suất 3 tấn/ha cần bón vào đất xấp xỉ 150kg N + 80 kg P2O5 + 135 kg K20 còn các nguyên tố vi lượng và siêu vi lượng ngô cần rất ít, chủ yếu lấy ở trong đất và trong phân hữu cơ. Vai trò của một số các nguyên tố dinh dưỡng cơ bản đối với ngô như sau:
Vai trò của nguyên tố đa lượng
Đạm đối với ngô: Đạm là nguyên tố dinh dưỡng quan trọng bậc nhất đối với ngô, nó quyết định phần lớn đến năng suất ngô. Đạm có mặt trong hàng loạt các chất hữu cơ quan trọng có tác dụng cấu tạo nên cơ thể như: axit amin, diệp lục, axit nucleic, các vitamin, một số chất kích thích sinh trưởng ... Khi bón đạm cho ngô, thân lá xanh tốt cây sinh trưởng mạnh, làm tăng sự phân hoá của các cơ quan sinhsản với số lượng lớn nên người ta gọi đạm là "động cơ" thúc đẩy sinh trưởng ở ngô. Hiệu suất l kg đạm là 20 - 25kg ngô hạt.
Ở ngô ít khi hiện tượng dư thừa đạm. Thiếu đạm ngô sinh trưởng kém, còi cọc, lá có màu vàng mau khô. Biếu hiện vàng bắt đầu từ gân lá và các mô tế bào ở gần gân lá rồi lan dần ra toàn bộ lá. Các lá già ở phía gốc thường bị thiếu đạm và chuyển vàng trước vì đạm được chuyến lên các lá phía trên. Neu bị thiếu nhiều đạm các lá bánh tẻ và lá non cũng sẽ bị vàng và chết sớm. Điều kiện dễ dẫn đến thiếu đạm là đất quá ấm hay khô hạn (nhất là vào thời kỳ ngô đang sinh trưởng mạnh), đất nghèo dinh dưỡng, mưa quá nhiều làm xói mòn và rửa trôi đạm.
Lân đối với ngô: Đây là nguyên tố dinh dưỡng rất quan trọng không thể thay thế được, mặc dù ngô cần lân ít hơn đạm và kali. Trong cây lân tham gia vào thành phần các chất đồng chủ yếu như ATP, ADN, ARN, các phốt phatít, ... Lân giữ vai trò quan trọng trong quá trình trao đổi chất và chuyển hóa năng lượng. Trên cây lân tập trung nhiều ở mô phân sinh: đầu rễ, lóng, ngọn, ... lân kích thích việc hình thành hoa đực hoa cái ở ngô với số lượng nhiều, chất lượng tốt. Lân còn tham gia tích cực vào quá trình vận chuyển các chất hữu cơ về hạt (hạt ngô chứa tới 75% lân đã được đồng hóa). Do vậy lân có tác dụng làm cho hạt chắc, sáng màu Thiếu lân cây sinh trưởng kém, cho năng suất thấp biểu hiện rõ ngay từ thời kỳ nấy mầm và thời kỳ cây con: cây con sinh trưởng chậm lại, các lá phía dưới có màu huyết dụ. Bắt đầu từ chóp lá và mép lá có màu tím hơi đỏ, bị nặng cả phiến lá và cây đều bị tím đỏ. Thiếu lân còn làm chậm sự phát triến của ngô, giảm khối lượng hạt, ngô có thế bị dị hình, hạt không thắng hàng. Điều kiện dễ gây nên thiếu lân là: đất xấu không đủ lân dễ tiêu, đất quá ẩm, quá khô hoặc đất quá chua làm cho lân bị cố định trong keo đất. Trường họp đất bí chặt cũng làm cản trở sự hút lân của bộ rễ gây thiếu lân trong cây.
Kali đối với ngô: Kali tập trung nhiều ở nơi có quá trình phân chia tế bào mạnh và nơi hình thành mô mới. Kali có tác dụng trong việc phân hóa đốt, vươn dài lóng, việc hình thành chồi ngô, ... Như vậy kali có tác dụng làm cho ngô sinh trưởng nhanh. Kali còn có tác dụng làm tăng khả năng chống chịu của ngô (chống đồ, chống chịu sâu bệnh). Vì Kali làm tăng hoạt tính men quang hợp, từ đó thúc đẩy quá trình tổng họp gluxxit, tăng cường sự hoạt động của các bó mạch và bề dày của mô làm cho cây cứng cáp, vững chắc, cũng như làm tăng khối lượng chất khô góp phần làm tăng năng suất ngô. Thiếu Kali ngô sinh trưởng chậm. Thiếu trầm trọng thì cây mềm rũ, lá gọn sóng có màu lục sẫm, mép lá bạc màu rồi khô dần dọc theo hai mép lá vào trong. Cây dễ bị đổ trước khi thu hoạch, ngô nhỏ, hạt nhỏ. Thời kỳ cây con dễ thấy biêu hiện thiếu kali. Trong điều kiện đất xấu, nghèo lượng kali dễ tiêu hoặc đất quá ẩm ướt, bí dí cây cũng sẽ thiếukali
Magie đối với ngô: Có tác dụng khích thích sự hút lân của ngô, do đó sự thiếu hụt magie thường kéo theo sự thiếu hụt về lân. Magie còn là thảnh phần của diệp lục. Khi thiếu Magie trên lá cây có những sọc vàng ở phần gần gân lá, đôi khi xen kẽ các đốm héo hình tròn làm đứt quãng các đường dọc dài. Các lá già phía gốc trở thành hơi tím đỏ. Chóp lá và mép lá có thế bị khô héo nếu thiếu nhiều magie. Trong điều kiện đất quá chua, đất cát mưa nhiều làm cho magie bị rửa trôi xuống tầng sâu dễ làm cho ngô thiếu magie.
Canxi đối với ngô: Canxi rất cần cho đất trồng ngô đế đảm bảo độ pH thích hợp cho cây. Mặt khác canxi giúp cho việc củng cố màng tế bào và điều hòa nước trong cây. Thiếu canxi lá ngô xòe ngang, rồi rũ xuống, đôi khi hai mép lá liên tiếp dính chặt vào nhau. Canxi là nguyên tố cần tương đối nhiều, trong thực tế cung cấp canxi cho ngô thông qua việc bón vôi.
Vai trò của các nguvên tố vi lượng đối với cây ngô
Bo: là nguyên tố vi lượng cơ bản của ngô, có tới 15 chức năng sinh lý trong cây. Đặc biệt là chức năng sản xuất sức nẩy mầm của hạt phấn. Do đó khi thiếu Bo hạt phấn hình thành ít, ngô và bông cờ phát triển kém, cây sinh trưởng chậm. Trong sản xuất thường cung cấp Bo cho ngô dưới dạng axit Boric có 17,5% Bo, Borat có 10,3% Bo, (bón 200 - 300g/ha), hoặc dùng chế phẩm supe lân tẩm Bo chứa 0,17 0,34% Bo (bón 0,5 - l,5kg/ha)
Đồng: tham gia cấu tạo nên enzim, cấu tạo phức chất với protein. Nếu thiếu đồng cây, lá có màu xanh vàng, lóng ngắn, lá non mền yếu, các loại đất mới khai hoang thường thiếu đồng.
Kẽm: tham gia vào quá trình tống họp nên axit amin, khi thiếu kẽm lá ngô bị rũ xuống, đầu lá trắng và dần dần bạc màu, thông thường đất có pH < 6 là bị thiếu kẽm.
Mangan: tham gia vào quá trình sinh trưởng và phát triến của cây. Nếu thiếu mangan lá có biểu hiện héo, màu xanh đậm, trên lá có các sọc trắng, cây mền yếu.
Nhu cầu về các chất dinh dưỡng của ngô:
Ngô là cây sinh trưởng và phát triển ngắn nhưng tăng trưởng nhanh do đó cần lượng dinh dưỡng cao và tập chung trong thời gian ngắn. Muốn bón phân hợp lý đề có năng suất và hiệu quả cao cần phải biết rõ nhu cầu dinh dưỡng của cây qua các thời kỳ sinh trưởng (nhất là đối với các nguyên tố đa lượng).
Ngô là cây sinh trưởng và phát triển ngắn nhưng tăng trưởng nhanh do đó cần lượng dinh dưỡng cao và tập trung trong thời gian ngắn. Muốn bón phân họp lý để có năng suất và hiệu quả cao cần phải biết rõ nhu cầu dinh dưỡng của cây qua các thời kỳ sinh trưởng (nhất là đối với các nguyên tố đa lượng).
Để sinh trưởng và phát triển cây ngô đòi hỏi một lượng lớn các chất dinh dưỡng trong suốt đời sống của cây. Muốn đạt được năng suất 10 tấn/ha cây ngô lấy đi từ đất 269 kg N, 111 kg P2O5, 269 kg K20, 56 kg Mg, 34 kg s, 18 kg Ca. Ngoài ra cây còn hút các nguyên tố khác như: Fe: 3,4 kg, Mn 0,6 kg, Bo 0,l kg, Cu 0,2 kg. Song sau khi thu hoạch trong thân lá ngô còn tồn tại nhiều kali, magie, lưu huỳnh và vôi. Nếu để lại các sản phấm phụ thân lá ở ngoài đồng ruộng thì sẽ trả lại cho đất một lượng đáng kế các nguyên tố dinh dưỡng và duy trì hàm lượng mùn hữu cơ, bảo vệ độ phì nhiêu của đất trồng ngô.
Yêu cầu về đạm, lân, kali qua các thời kỳ sinh trưởng
Nhu cầu về dinh dưỡng của ngô nói chung là cao, song sự hút dinh dưỡng ở ngô thay đổi theo các giai đoạn sinh trưởng. Có thể chia yêu cầu về dinh dưỡng của ngô qua 3 giai đoạn sinh trưởng sau:
Yêu cầu về đạm, lân, kali ở thời kỳ cây con từ mọc đến 7 và 8 lá
Đây là giai đoạn tăng trưởng chậm, ngô chủ yếu phát triển bộ rễ, hút dinh dưỡng không đáng kể chỉ biến động từ 1 - 4% tồng lượng cây hút. Đây là thời kỳ không thể thiểu được các nguyên tố đa lượng, vì cây chuyến từ dinh dưỡng nhờ chất dự trữ trong hạt sang dinh dưỡng tự lập, hệ thống rễ đốt hình thành năng lực hút dinh dưỡng còn kém chưa đáp ứng được yêu cầu của cây ngô. Do đó thời kỳ này còn gọi là thời kỳ khủng hoảng dinh dưỡng (nhất là đạm). Thiếu đạm sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới các giai đoạn sau và ảnh hưởng tới năng suất. Thiếu lân và kali gây tác động rõ rệt: ngô sinh trưởng kém, nền tảng đế hình thành rễ đốt ít, cây mắc bệnh huyết dụ, ...
Yêu cầu về đạm, lân, kali ở thời kỳ tăng trưởng nhanh:
Từ khi ngô có từ 7 - 8 lá đến lúc thụ tinh xong (râu ngô chuyến màu và héo) thường sau trồ cờ 10 -15 ngày. Đây là thời kỳ ngô hấp thụ tối đa dinh dưỡng chiếm khoảng 70 - 95% tổng lượng cây hút. Đồng thời cũng là hiệu suất cao nhất của đạm, đặc biệt lúc trỗ cờ cường độ hút đạm của ngô là mạnh nhất (164 mg/ngày). Cuối thời kỳ này ngô đã hút được 81,8% nhu cầu về đạm so với tổng lượng đạm yêu cầu trong suốt đời sống của cây. Các nguyên tố kali, canxi hầu như đến giai đoạn này đã hút đủ lượng cung cấp cho sự phát triển của cây. Riêng đối với lân đến lúc trỗ cờ ngô mới chỉ hút được 50% so với tống lượng cây cần. Ngô cần lân bức thiết ở giai đoạn hình thành hạt.
Yêu cầu về đạm, lân, kali ở thời kỳ chín
Là thời kỳ cây ngô thực hiện chức năng phân phối lại các chất dinh dưỡng đã hấp thụ được về hạt, vì vậy việc hút dinh dưỡng không đáng kể. Sự hút dinh dưỡng của cây ngô có thế tóm tắt như bảng 5.3:
Bảng 5.3. Sự hấp thư dinh dưỡng qua các thời kỷ sinh trưởng
Để sinh trưởng và phát triển bình thường ngô cần ít nhất 12 nguyên tố dinh dưỡng đa lượng và vi lượng. Nhu cầu dinh dưỡng của ngô ở các giai đoạn sinh trưởng khác nhau thì khác nhau. Trong các chất dinh dưỡng thì đạm ngô cần nhiều từ giai đoạn 6 lá trở đi, tăng nhanh ở giai đoạn 12 - 18 lá và hầu như không cần đạm ở giai đoạn cứng hạt. Nhu cầu lân của ngô qua các thời kỳ tương đối điều hòa hơn, lân cũng cần nhiều khi ngô có 12-18 lá và đến trước chín sinh lý mới ngừng hút lân. Riêng phân kali ngô cần cung cấp sớm và liên tục. Ngô hút đủ kali ngay sau khi ngô phun râu và phần lớn kali còn tồn tại trong cây thu hoạch.
3.3.Những vùng trồng ngô và vụ ngô chính ở Việt Nam
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
TÀI LIỆU THAM KHẢO
No comments:
Post a Comment